Triết lý khoa học hiện đại
Nguyễn Đức Hiệp [i]
(Tiếp theo)
Cơ bản, khoa học là một hoạt động "vô tổ chức" và nhân bản, Feyarabend khẳng định. Vì thế, theo ông, nên khuyến khích, thúc đẩy sự tiến bộ, thay vì ép buộc khoa học vào một khuôn khổ được chỉ đạo theo "luật lệ và trật tự". Một nguyên lý duy nhất không ngăn cản sự tiến bộ của con người là: tất cả đều được cho phép và hoạt động. Feyarabend cho rằng nên bãi bỏ sự phân biệt giữa bối cảnh (context) của sự khám phá và bối cảnh của sự phản nghiệm, của tiêu chuẩn, của dữ kiện quan sát. Cố gắng phân biệt chúng sẽ có những kết quả thảm hại không lường được. Theo Feyarabend, chủ nghĩa duy lý phê phán của Popper thất bại là vì thế. Trong xã hội dân chủ, khoa học phải được tách rời ra khỏi chính quyền cũng như tôn giáo đã được tách ra khỏi chính quyền như hiện nay; không một phương pháp hay một tôn giáo nào được độc tôn trong hệ thống chính quyền xã hội.
6. Hậu hiện đại (postmodernism) và chủ thuyết tương đối (relativism) trong "chiến tranh khoa học":
Theo nhà vật lý Weinberg thì trong vài năm gần đây khoa học đã bị tấn công từ nhiều phía đứng chung dưới bảng hiệu "chủ nghĩa tương đối" (relativism) hay chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo ông, họ phản bác tuyên bố của khoa học là khám phá tìm ra sự thật khách quan. Các nhà triết học hậu hiện đại cho rằng khoa học chỉ là một hiện tượng xã hội, không khác chi những hiện tượng xã hội khác như tôn giáo, mê tín, nghệ thuật. Theo họ, quá trình tiến tới các tư tưởng khoa học có nhiều yếu tố chủ quan. Như đã trình bày ở trên, các nhà xã hội học và triết gia hậu hiện đại đã bị ảnh hưởng lúc đầu bởi ý niệm "mô thức" (paradigm) của Kuhn, nhưng ta cũng thấy ngay là triết lý của Feyarabend cũng là một phần chủ yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Khác với chủ nghĩa lãng mạn (là một phản ứng với một thế giới quan dựa vào lý trí trong thời Khai sáng, quan niệm rằng con người nên trở về với thế giới thiên nhiên, dựa vào cảm tính, tình cảm mãnh liệt và sự nhất thời), chủ nghĩa hậu hiện đại ít nhất vẫn tin vào duy lý trong sự tương đối. Như Wilson (12) đã nói, chủ nghĩa hậu hiện đại mới chính là phản đề (antithesis) tối hậu của tư tưởng duy lý thời Khai sáng. Sự khác biệt giữa hai tư tưởng này có thể được tóm tắt như sau: những nhà tư tưởng khoa học thời Khai sáng cho rằng chúng ta có thể hiểu biết tất cả, còn những nhà hậu hiện đại tin rằng chúng ta có thể không hiểu biết gì hết.
Quan điểm trên của chủ nghĩa hậu hiện đại có thể bắt nguồn từ sự giảm tin tưởng vào khả năng của khoa học trong việc giúp con người hiểu rõ và giải quyết các vấn đề khó khăn trong đời sống. Trước kia, con người, nhất là từ đầu thế kỷ 20 đến thập niên 1960, rất tin là khoa học sẽ cho phép hiểu biết cặn kẽ, rõ ràng mọi vấn đề trong đời sống. Các khám phá khoa học đã ảnh hưởng rất nhiều lên cuộc sống, nhưng thực tế cho ta thấy có những hệ thống rất phức tạp, không tiên đoán chính xác được (như kinh tế, thời tiết, môi trường, v.v... ).
Các nhà xã hội và nhân chủng học của chủ nghĩa hậu hiện đại đã đưa ra luận cứ cho rằng ngay cả tiến trình thay đổi trong các lý thuyết khoa học là một tiến trình xã hội: hệ thống thẩm định bài vở giữa các nhà nghiên cứu cùng ngành (peer review) cho thấy "các sự thật khoa học, thực ra là những thoả thuận xã hội phổ cập và cái gì là "thật" (real) khoa học, đạt được rõ ràng qua một "tiến trình khoa học" thương lượng" (13). "Thương lượng để đi đến kết luận" là điều đã được chứng minh, hay là một thí nghiệm tốt, thì cũng rối rắm như bất cứ tranh luận nào giữa các luật sư hoặc các chính trị gia.
Chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành phổ biến và phát triển rộng rãi trong văn học, nghệ thuật và khoa học xã hội vì với cái nhìn tương đối trong việc đánh giá và thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, nó tỏ ra phóng khoáng và bao gồm. Nó cũng dựa vào triết lý “hậu cấu trúc luận” (post-structuralism), mà hai triết gia Pháp Roland Barthes và Jacques Derrida là tiêu biểu.
“Cấu trúc luận” (structuralism) của Claude Levi-Straus cho rằng bất luận tác phẩm viết về thiên nhiên, lịch sử hay chủ đề gì, cả chủ đề lẫn ngôn ngữ dùng để cấu tạo tác phẩm cũng phải được xem xét trên một hệ thống rộng lớn hơn, bao gồm quy ước, hoàn cảnh lịch sử, xã hội trong thời đại mà tác phẩm ra đời, chứ không chỉ chuyên về chủ đề mà thôi. Do đó ta có thể dùng hệ thống cấu trúc cùng ngôn ngữ, lý luận, phương pháp khoa học để khám phá ra sự thật cụ thể.
Mặt khác, những người hậu cấu trúc luận như Derrida thì cho rằng cả hệ thống cấu trúc như vậy là tự mâu thuẫn không tưởng, và sụp đổ do sự thiếu nhất quán của nó. Ngay cả ngôn ngữ diễn đạt dùng trong tác phẩm cũng không hàm chứa sự thật, và ý nghĩa của bản văn luôn thay đổi chứ không cố định. Derrida cho rằng một cấu trúc (structure) phải có một “trung tâm” mà các thành phần liên hệ của cấu thể dựa vào. “Trung tâm” này không thể thay thế được và vì thế không phải là một bộ phận hoạt động của cấu trúc. Trung tâm vừa nằm trong cấu trúc vừa nằm ngoài cấu trúc. Điều này có vẻ như mâu thuẫn. Thí dụ Thánh Kinh (Bible) có thể được coi là trung tâm của đạo Cơ đốc, nhưng nếu ta cho rằng Thánh kinh gồm có hai phần, Cựu ước và Tân ước, thì trung tâm lại đổi khác. Sự bền vững của cấu trúc vì thế bị tháo giải ra (deconstruct) và không còn giá trị hay chỉ còn giá trị tương đối với các khuyết điểm của nó. Để hiểu một cấu trúc, cần phải phá trung tâm (de-center) và tháo giải (deconstruct).
Derrida cho rằng tất cả lịch sử khái niệm về cấu trúc trong tư tưởng chỉ là một chuỗi các sự thay thế của các trung tâm. Trường phái cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận cũng là sự thay đổi nối tiếp của các trung tâm với các giá trị khác nhau. Mỗi nền văn hoá là một tập hợp các niềm tin khác nhau, vì thế có các trung tâm khác nhau. Tất cả đều tương đối. Không có một ý niệm nào tuyệt đối khách quan về sự thật.
Theo hậu cấu trúc luận thì không thể nào hoàn toàn định nghĩa một "văn bản", và không bị giới hạn bởi nghĩa mà chính tác giả đặt định. Nói cách khác, văn bản có nhiều tự chủ, trong đó nghĩa của nó được tách khỏi sự ràng buộc theo ý muốn của tác giả. Muốn hiểu nghĩa của văn bản sao cũng được vì ngữ và nghĩa luôn thay đổi, không cố định.
Từ vài thập niên gần đây, có nhiều câu hỏi và tranh luận, cũng như đụng độ giữa các khuynh hướng khác nhau về thế nào là khoa học, và phương pháp khoa học "đích thực" là gì. Quan niệm về các mô thức của Kuhn, và hậu cấu trúc luận của Derrida như đã trình bày ở trên, rất ăn khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo đó mỗi mô thức đều có giá trị khác nhau và ta không thể so sánh chúng dựa vào tiêu chuẩn chung nào, vì chúng hoạt động trong một khuôn khổ, môi trường với quan niệm khác nhau.
Ngày nay có sự phân chia rất sâu đậm giữa khoa học theo Popper (chủ yếu là vật lý) và các khoa học nhân văn xã hội dựa vào Kuhn, Feyarabend và Derrida. Hố sâu "văn hoá" đó là rất lớn. Nhà vật lý Weinberg đã công kích các nhóm khoa học nhân văn (humanity sciences), xã hội văn hoá học (cultural sociology) theo chủ thuyết hậu hiện đại (post-modernism) khi họ cho rằng khoa học như ta biết được từ xưa đến nay đều mang ảnh hưởng và cái nhìn văn hoá của nền văn minh phương Tây và vì thế phủ nhận tính khách quan của mọi khoa học. Weinberg, mặc dù rất phục Kuhn, nghĩ rằng ý niệm "mô thức" của Kuhn quá mơ hồ và đã bị các nhà hậu hiện đại lạm dụng để đả phá các ngành khoa học khách quan nhằm lập ra các ngành mới, với ý đồ.
Rất nhiều người theo chủ thuyết hậu hiện đại tự cho mình là tiên phong (avant-garde), đã đi vào vật lý cơ học lượng tử (quantum) hay thuyết hỗn loạn (chaos theory), những lãnh vực rất mới, thời trang để tìm, dẫn thêm, phác họa, hay để chứng minh tính chất rời rạc và ngẫu nhiên của kinh nghiệm con người và tính chủ quan của môi trường văn hoá xã hội trong mọi hoạt động của cuộc sống. Cách đây không lâu Sokal (xem phụ đính) đã tạo một cú sốc đối với nhóm xã hội học (sociology) và hậu hiện đại, cho phép Weinberg hân hoan tuyên bố rằng tất cả những môn đồ của khoa học xã hội theo hậu hiện đại quả thật chỉ là một bọn bá láp.
Cuộc chiến tranh "hai văn hoá" này đã xảy ra trong hơn 30 năm qua. Nó tạo ra hình ảnh rập khuôn (stereotype) về hai phe: một bên là phe Popper "hữu khuynh", "khách quan", còn bên kia là phe Kuhn - Derrida thì "tả khuynh", "chủ quan". Không ít khoa học gia nằm ở hai chiến tuyến, nhưng cũng có một số nghiên cứu liên ngành nằm giữa hai gọng kìm: khoa học "cứng" ("hard science") và khoa học "mềm" ("soft science").
7. Tổng luận về triết lý khoa học ngày nay:
Về triết lý, sự khác nhau cơ bản của hai trường phái trong "chiến tranh khoa học" là tri thức của con người được "khám phá" (theo phái khoa học khách quan) hay là được "tạo ra" (theo phái chủ nghĩa tương đối hậu hiện đại). Theo đó không có đụng chạm giữa khoa học vật lý và khoa học nhân văn về phương pháp khoa học và đặc tính chân lý, về sự thật của tính tương đối hay tuyệt đối trong khoa học ngày nay. Ngay trong ngành sử học của khoa học nhân văn cũng có khác nhau giữa trường phái khách quan khoa học và chủ quan hậu hiện đại, và trong ngành sinh học trình bày ở phần trên cũng có sự khác biệt phản ánh qua cuộc tranh luận về khoa học tiến hoá giữa Gould và những người theo thuyết Darwin cổ điển.
Thí dụ gần đây là cuộc thảo luận sôi nổi về việc có hay không tính khách quan trong nghiên cứu lịch sử tại đại học New South Wales ở Sydney (Úc) vào tháng 8, 2002 (18) có sự tham dự của Richard Evans, một sử gia "trường phái khách quan" ở đại học Cambridge, tác giả "In Defence of History" ("Bảo vệ lịch sử") từng là nhân chứng chuyên gia cho vụ án David Irving. (Irving là sử gia theo phát xít Nazi đã phủ nhận vụ thiêu người Do thái (holocaust) và dùng mập mờ, uốn nắn tài liệu sử học để tô hồng hình ảnh của Đức quốc xã. Irving bị kiện là đã xuyên tạc lịch sử và xúc phạm nhân bản.) Tại diễn đàn, Evans chỉ trích các nhà sử học hậu hiện đại khi họ cho rằng không có gì có thể gọi là sự thật khách quan. Ông hỏi lại: vậy thì chính câu hỏi này có là sự thật khách quan không? Richard Evans đưa ra thí dụ về vụ Irving để khẳng định là có sự thật khách quan. Ông giải thích: nếu mọi cách nhìn lịch sử đều là đúng thì sự không có lò thiêu người (như Irving khẳng định) cũng là đúng sao? Giáo sư Stephen Garton (một sử gia hậu cấu trúc) ở đại học Sydney nhìn nhận là lịch sử có đúng hoặc sai, cũng như trong hàng ngũ các nhà hậu hiện đại có người giỏi người dở, nhưng ông cho rằng một nhà hậu cấu trúc như Foucault có nhiều cống hiến quí báu bằng cách dùng tư tưởng này để vạch ra các hướng đi mới cho sử học như lịch sử sinh lý học, lịch sử thực phẩm, y khoa v.v..
Keith Windshuttle, tác giả "The killing of history: how literary critics and social theorists are murdering our past" (Ám sát lịch sử: các nhà bình luận văn học và lý thuyết xã hội đã giết chết quá khứ của chúng ta như thế nào")(19), phát biểu rằng quan hệ giữa thổ dân và người da trắng trong lịch sử Úc lúc đầu thường là thân thiện chứ không phải bao giờ cũng là thù địch, nhằm tiêu diệt nhau. Và việc chúng ta có thể viết lịch sử một cách khách quan hay không là tùy thuộc vào hệ thống tôn giáo, chính trị. Giáo sư Dirk Moses ở đại học Sydney phê bình ý kiến này của Windshuttle, cho rằng khi ông không dùng những tư liệu truyền khẩu của thổ dân vì đứng trên quan điểm của người da trắng thì đấy là điều rất khách quan, nhưng điều khách quan này thực sự có màu sắc chính trị, không khách quan.
Behan McCullagh, giáo sư đại học La Trobe, tác giả "The truth of history" ("Sự thật lịch sử"), theo trường phái lịch sử khách quan, thì hòa hoãn hơn, cho rằng các sử gia khách quan cũng đã chấp nhận và áp dụng một số điểm đúng của hậu hiện đại về ảnh hưởng của văn hoá, chính trị khi viết sử. Theo McCullagh, khó có lịch sử nào hoàn toàn đúng, nhưng không vì thế mà cho là lịch sử sai khi nó không hợp với thiên kiến của một số người đọc. Ông đưa ra một ý niệm về thực tiễn, nằm giữa sự thật tuyệt đối và sự thật tương đối: lịch sử không hoàn toàn nhưng nó đúng trong những mục đích thực tiễn cốt yếu trong hoàn cảnh có được. Joy Damoussi, giáo sư đại học Melbourne, cho rằng tất cả lịch sử đều chủ quan, nhưng đó cũng không phải là xấu. Rất tốt nếu chúng ta có nhiều quan điểm khác nhau về lịch sử dưới góc độ khác nhau của các văn hoá truyền thống, và từ đó có thể tổng hợp đi đến cái gì gần đúng với sự thật hơn.
Người phương Tây có khuynh hướng phân tích, máy móc mổ xẻ vấn đề và tiến đến vĩ mô để hiểu tường tận. Phân tích là một bộ phận quan trọng nhất của nền khoa học phương Tây. Cũng không có gì lạ khi mà triết lý tổng hợp, hợp nhất hoà đồng, ít được phát triển ở Tây phương. Ngược lại, ở Đông phương, sự đồng nhất, hợp nhất và khuynh hướng nhìn chủ toàn là yếu tố quan trọng hơn. Nó thể hiện trong tâm linh, suy nghĩ và phản ánh trong đời sống xã hội và văn hoá của người phương Đông.
Để giải quyết sự bế tắc trong cuộc "chiến tranh hai văn hóa" (cũng gọi là "chiến tranh khoa học") giữa hai quan điểm trên, cần một khái niệm tổng hợp có ích cho khoa học tự nhiên lẩn khoa học nhân văn. Như đã trình bày trên, hiện có khuynh hướng của khoa học tìm về triết lý tổng hợp của Đông phương để bổ sung cho triết lý Tây phương.
Edward Wilson (12), người sáng lập ngành "sinh học xã hội" (sociobiology), đã kêu gọi "đình chiến" và đưa ra viễn ảnh hợp nhất khoa học tự nhiên, thực nghiệm với khoa học xã hội qua khái niệm "đồng hợp" ("consilience"). Có lẽ đây là khái niệm tổng hợp liên ngành nổi bật nhất trong hơn 3 thập kỷ qua. Đích thân Wilson cố gắng đem sinh học vào khoa học nhân văn, và kêu gọi các nhà khoa học xã hội mang kiến thức sinh học vào vấn đề xã hội. Tuy nhiên nhiều nhà khoa hoc không đồng ý với Wilson. Stephen Jay Gould (cổ sinh học) và Nils Eldredge (sinh học tiến hoá) (20), chẳng hạn, cho rằng xã hội và văn hoá là một hệ thống vô cùng phức tạp, khó có thể đem hệ thống sinh học vào.
Khuynh hướng và phương pháp tổng hợp tri thức để tìm và chứng minh một giả thuyết, hay một tri thức mới, thật sự đã được Whewell đề cập và phát hiện từ thế kỷ 19. Chính Whewell đã đặt ra từ "đồng hợp" để mô tả phương pháp này. (Nên nhắc lại, Whewell cũng là người đặt ra "scientist" hay khoa học gia trong tiếng Anh.) Theo Whewell, khái niệm "đồng hợp" trong đó các hiểu biết tìm được qua một phương pháp hay một ngành nghiên cứu, nếu có những hội ứng bổ xung hoặc hỗ tương bất ngờ với những kiến thức biết được qua một ngành nghiên cứu với phương pháp hoàn toàn khác, sẽ làm ta tin tưởng vào kiến thức và phương pháp ta đang dùng. Và vì thế giúp ta khám phá được nhiều điều mới lạ hơn.
Thật ra gần đây, ngoài những người can dự vào cuộc chiến tranh khoa học, các nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên và nhân văn đã hợp tác hay tổng hợp, dựa vào các kết quả nghiên cứu của nhau để tìm ra những khám phá mới. Sự khảo cứu phối hợp liên ngành đòi hỏi các nhà khoa học hiểu biết những kiến thức ngoài chuyên môn của mình.
Một thí dụ cho sự khám phá tri thức mới qua cộng tác liên ngành gần đây là công trình tìm ra được cội nguồn xuất phát của dân tộc Thái qua ngôn ngữ học, khoa học hệ thống thông tin địa hình GIS (Geographic Information System) và canh nông (21). Nghiên cứu sinh học di truyền của cây ngô (bắp) đã cho thấy nơi nào ngô đã được dùng trong canh nông đầu tiên và giúp các nhà khảo cổ học tìm những địa điểm khảo cổ (22). Ở Việt Nam, nhà sử học Trần Quốc Vượng là một trong những người đầu tiên đã phối hợp nhiều ngành để giải đáp nhiều khúc mắc trong lịch sử cổ đại Việt Nam, mà nếu chỉ dựa vào sử liệu thì là đi vào ngõ cụt. Nhiều nhà khoa học tự nhiên và nhân văn hiện nay cũng có khuynh hướng này. Baker (23) nghiên cứu về những trận đại hồng thuỷ sau thời kỳ Băng hà đã dùng những dự kiện địa chất, hải dương học, khí tượng học để nghiên cứu về các trận hồng thuỷ và cho thấy là có sự hỗ tương không ngờ. Phương pháp cổ điển dùng quy nạp trong địa chất của Lyell thật sự không phải là phương pháp để nghiên cứu vấn đề này mà là phương pháp đồng hợp của Whewell với những kiểm chứng qua những liên hệ bất ngờ và các giải thích ngạc nhiên.
Một thí dụ khác là công trình của nhà khoa học y khoa Stephen Oppenheimer (24). Tác giả này đã kết hợp kết quả của nghiên cứu di truyền, hải dương học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học,v.v. để tìm nguồn gốc và sự phát tán văn minh Đông Nam Á đến các khu vực lân cận và xa hơn nữa trên thế giới sau thời kỳ băng hà và việc biển tiến ở vùng đồng bằng Sundaland.
Gần đây các nhà khoa học tự nhiên đã dùng tri thức về di truyền học để giải đáp về nguồn gốc con người xuất phát từ Phi châu và toả ra khắp các lục địa. Kết quả di truyền học thực hiện trên các dân tộc vùng Á Châu đã cho thấy rõ, cũng có con người đi từ Đông Nam Á đến Trung Quốc góp thành các dân tộc ở Đông Á (25); điều này hợp với thuyết về nguồn gốc phương Nam của nhiều thành phần truyền thống văn hoá, văn minh phía Bắc. Các nhà khoa học tự nhiên đã giúp giải đáp các câu hỏi then chốt trong các ngành khảo cổ, nhân chủng và xã hội học.
Tóm lại, phương pháp đồng hợp đã bắt đầu có những áp dụng thực tiễn trong nhiều ngành khác nhau, và đã cho thấy những khám phá bất ngờ. Điểm đặc biệt của phương pháp này là nó không bó buộc các nhà nghiên cứu phải theo một phương pháp tiêu chuẩn chung nào. Quan điểm này phù hợp và không trái lại với triết lý hậu hiện đại. Từ nhiều phương pháp khác nhau, đứng từ quan điểm lịch sử phát triển riêng của các ngành, "đồng hợp" giúp ta tổng hợp kiến thức và tăng thêm tin tưởng vào các khám phá khoa học.
Con người trong xã hội thường sống trong các môi trường cạnh tranh, và mong ước có một phương tiện điều hòa, một tiêu chuẩn khách quan để giải quyết tranh chấp. Một trong những phương tiện mà nhiều người cho là khách quan và gần với sự thật là khoa học. Nhưng như ta đã thấy, khoa học cũng tương đối và tuỳ thuộc vào văn hoá, thời điểm, và không hoàn toàn khách quan. Từ đó dẫn đến dân chủ trong đa phương pháp và sau cùng khoa học là "khoa học" được chấp nhận bởi đa số khoa học gia. Trong số các phương pháp khoa học cạnh tranh nhau, phương pháp khoa học nào không mang lợi ích cho con người trong việc tìm hiểu hay áp dụng khoa học sẽ bị loại bỏ, số còn lại sẽ được chấp nhận tùy theo hoàn cảnh áp dụng. Sau "Hội nghị Thế giới về Khoa học" (World Conference on Science) tổ chức ở Budapest năm 1999, Hội đồng Khoa học Thế giới (International Council for Science, ICSU) đã ra thông cáo đánh giá sự đóng góp vào khoa học và viễn tượng tương lai của tri thức truyền thống bản địa (traditional knowledge), lập ra chương trình hành động kêu gọi sự liên hệ và hợp tác giữa khoa học và khoa học truyền thống bản xứ. Tuy nhiên ở Đại hội của Hội đồng Khoa học Thế giới (ICSU), có những quan tâm đã được nói lên, và Đại hội đã biểu quyết đồng ý phải phân biệt giữa tri thức truyền thống và khoa học và những phương pháp tiếp cận khuyến khích ngụy khoa học và phản khoa học (26).
Một Nhóm Nghiên cứu được thành lập để giải quyết vấn đề khúc mắc này. Dưới sự lãnh đạo của nhà toán học Na Uy Jens Erik Fenstad, nhóm này quy tụ các nhà khoa học ở nhiều nước thuộc các ngành khác nhau như xã hội học, triết học khoa học, thảo vật học, kỹ thuật. Nhiệm vụ của Nhóm Nghiên cứu rất quan trọng vì nếu không cẩn thận, có thể dễ dàng gây ra sự chia rẽ trầm trọng trong Hội đồng về quan điểm khoa học, như ta đã chứng kiến trong "chiến tranh khoa học". Năm 2002, Nhóm Nghiên cứu đã ra bản tường trình với các hướng dẫn về "tiêu chuẩn" dùng tri thức qua các loại "khoa học" khác nhau, nhất là sự liên quan giữa tri thức truyền thống bản xứ chẳng hạn như y học truyền thống dân tộc (traditional medicine) và khoa học hiện đại để phân biệt với "ngụy khoa học" ) chẳng hạn như thuyết "ngụy khoa học" cho rằng thế giới tạo ra bởi thượng đế (creation science) .
Hướng dẫn này đưa ra hai phương án để phân biệt khoa học, ngụy khoa học và tri thức truyền thống bản xứ và được tóm tắt như sau. Mặc dầu không có một tiêu chuẩn duy nhất chung để phân biệt khoa học với ngụy khoa học nhưng có hai phương án tổng quát để tiếp cận vấn đề, phương án xã hội và phương án tri thức học. Phương án xã hội cho rằng ngành ngụy khoa học luôn luôn cạnh tranh công khai, ít hay nhiều, với một ngành khoa học tương ứng từ lúc khởi đầu của ngành này, và thường không được đưa ra từ các nhân vật đã được đào tạo trong ngành khoa học đó. Phương án xã hội phải được bổ túc bằng phương án tri thức học qua đó khoa học có tính cách hệ thống hơn tri thức thường ngày. Có 6 phương diện để một hệ thống được gọi là khoa học: nó diễn tả cách nào, nó giải thích ra sao, nó thiết lập được tri thức bằng cách nào, nó phải có một lý thuyết, trường hợp về sự hoàn toàn, toàn vẹn, nó mở rộng tri thức ra sao và nó diễn đạt tri thức thế nào. Trong mọi ngành khoa học, ta có thể thấy khuynh hướng tăng trưởng tri thức có hệ thống ở mọi hướng, mọi mặt. Trái lại, hầu hết các ngành ngụy khoa học đều không năng động và dậm chân tại chỗ. Tri thức truyền thống bản xứ rất dể phân biệt với ngụy khoa học, vì tri thức truyền thống là một hệ thống tri thức thâu thập từ nhiều thế hệ, với cách làm, thực hành được gìn giữ, phát triển bởi một sắc dân có lịch sử cộng sinh lâu dài với môi trường thiên nhiên. Nó có nguồn gốc từ một văn hoá khác với văn hoá Tây phương và vì thế độc lập và không cạnh tranh với khoa học.
Phụ đính
Hiện tượng Sokal
Khoảng cuối năm 1994, nhà vật lý Alan Sokal đã gởi bài cho Social Text, một tạp chí nghiên cứu văn hoá, xã hội có tiếng ở Mỹ. Bài của ông được đăng trong số Xuân/Hè 1996, chuyên đề "Chiến tranh Khoa học". Tựa của bài là "Transgressing the boundaries - Toward a transformative hermeneutics of Quantum gravity" ("Vượt quá các biên giới - Đi đến một biến đổi nghiên cứu văn bản của lực hút lượng tử")(14), rất tiêu biểu cho loại thảo luận, nghiên cứu của tạp chí này và những tạp chí triết học xã hội tương tự. Ngay cả tựa đề, ngôn từ dùng rất thời trang và khó hiểu (rất nhiều nhà khoa học phải tra từ điển từ "hermeneutics", một ngành triết học nghiên cứu nghĩa và diễn giải văn bản (15)). Như nhiều bài khác trong tạp chí, bài của Sokal cũng đã chỉ trích, bài bác cái gọi là khoa học khách quan, một giáo điều của thời Khai sáng. Nhưng khác những bài kia, Sokal đã cố ý dùng những lý luận lệch lạc, viết sai những lý thuyết và sự kiện vật lý nằm trong những câu văn với những từ ngữ mang màu sắc rất hậu hiện đại.
Sau khi bài được đăng, Sokal viết một bài trên tạp chí Lingua Franca(2) trong đó ông tiết lộ là bài ông gởi cho Social Text chứa đầy những sai lầm lý luận, với những sự kiện vô lý, vô nghĩa trong vật lý học, mà bất cứ ai có vài hiểu biêt về vật lý cũng có thể thấy rõ là vô nghĩa, cũng có thể ngạc nhiên về sự ngây thơ, và biết ngay là bài chỉ để đùa cợt, chế nhạo, khôi hài. Thế mà các nhà biên tập của Social Text đã đăng mà không kiểm trước với các nhà vật lý, chỉ vì bài có ý và kết luận đúng với ý thức hệ có sẵn và định kiến của Social Text. Sokal còn cho thấy rõ, cả tạp chí và cộng đồng gọi là khoa học xã hội theo hậu hiện đại thiếu tiêu chuẩn nghiêm ngặt về trí thức và đầy ý thức hệ, định kiến sẵn, cố ý tự mình khép đóng. Họ không bao giờ có tinh thần học hỏi điều nghiên theo tư cách của các nhà khoa học chân chính, tôn trọng và thẩm định những ý kiến, nghiên cứu dù khác hoặc trái với tư tưởng và phương pháp của mình.
Bài của Sokal đã có tiếng vang rộng lớn ngoài cộng đồng triết học, khoa học. Nó làm xôn xao và gây tranh cãi, bình luận trên nhiều tạp chí và diễn đàn của nhiều ngành, cũng như trên báo chí ở Mỹ, Âu châu và nhiều nước khác. Sokal, sau đó với sự cộng tác của nhà vật lý và triết học Bỉ Jean Bricmont, ra quyển sách "Fashionable nonsense: Postmodern intellectuals's abuse of science" (16) (bản Pháp ngữ là "Impostures intellectuelles") trình bày cặn kẽ sự lạm dụng các thuyết và từ ngữ trong toán học và vật lý của một số trí thức hậu hiện đại ở Pháp, như Bruno Latour, Gilles Deleuze, Jacques Lacan, Julia Kristeva, Luce Irigary, Jean Baudrillard, và Paul Virilio. Sokal và Bricmont vạch rõ sự vô nghĩa và thiếu hiểu biết toán học và vật lý trong các bài viết của những người này và cho thấy họ không hiểu chính những gì họ viết. Quyển sách cũng cho thấy sự rỗng tuếch, dùng sáo ngữ làm bình phong cho những tư tưởng vô nghĩa của một số triết gia, đa số là thiên tả, ở Pháp có ảnh hưởng đến các trí thức ở Mỹ. Những từ ngữ thời thượng mang tính triết học hậu hiện đại rất khó hiểu ngay cả đối với những người trong ngành, theo Sokal và Bricmont, thật ra chỉ là sáo ngữ che giấu sự thiếu hiểu biết của chính họ về những đề tài thời thượng. Nhiều nhà triết học và khoa học đã cho rằng đây là một trong những quyển sách quan trọng nhất về triết học khoa học trong thế kỷ 20.
Trong bài đăng ở Social Text, Sokal cũng chế nhạo sự thiếu hiểu biết về vật lý của các nhà hậu hiện đại khi dùng từ tuyến tính "theo đường thẳng" (linear) mà theo họ là cũ, không hợp thời, thiếu sáng tạo, trong khi họ nghĩ từ vô tuyến tính "theo đường cong" (non-linear) là tiên phong và phong phú hơn. Trong bài ấy Sokal cũng bàn về tầm quan trọng trên phương diện văn hoá của thuyết lượng tử trọng lực (quantum gravity), dùng trọng lực trường là một toán tử (operator) "không hoán chuyển"(noncommuting) và vì thế "theo đường cong". Đó là một phát biểu cố tình sai lầm của Sokal, vì "không hoán chuyển" không có nghĩa là "theo đường cong". Ai học vật lý đều biết là trong cơ học lượng tử có nhiều đặc tính "không hoán chuyển" nhưng đồng thời cũng có tuyến tính "theo đường thẳng". Thế mà không ai trong ban biên tập Social Text thấy điều này vì cứ nghĩ rằng không tuyến tính "theo đường cong" là tiên phong, mới mẻ.
Sokal là nhà vật lý phái tả, từng tình nguyện đi dạy toán ở Nicaragua trong thời chính phủ cách mạng Sandinista. Vì thế, trong bài viết trên Lingua Franca, ông cũng tỏ vẻ buồn là các nhà hậu hiện đại, đa số là phái tả, đã không dùng lý trí khoa học khách quan để chống lại mê tín huyền bí như truyền thống phe tả, mà lại đả phá phương pháp khoa học khách quan để trở về với huyền bí, hỗn độn của nguyên thuỷ.
Sự tiết lộ về mục đích của Sokal đã gây tranh cãi về quy trình chọn bài. Các nhà biên tập của tạp chí Social Text giải thích rằng họ nhận đăng bài Sokal là vì họ thấy đấy là cố gắng của một nhà vật lý tìm kiếm bằng chứng trong triết lý hậu hiện đại để phát triển ngành của mình, và Social Text không phải là tạp chí khoa học có hệ thống kiểm bài (peer review) mà là tạp chí ý kiến. Một số nhà xã hội học như Steve Fuller cũng đã trả lời giận dữ là Sokal đã lạm dụng sự tin tưởng của ban biên tập và như vậy là thiếu tư cách. Ảnh hưởng và dư âm của sự kiện Sokal mạnh nhất là ở Pháp, nơi rất nhiều nhà triết học hậu hiện đại tiên phong bị "lột mặt nạ".
Bên cạnh vấn đề sử dụng hay lạm dụng lý thuyết khoa học để hậu thuẫn cho những lý thuyết, triết học hậu hiện đại của một số trí thức, như Sokal và Bricmont đã trình bày, chính đáng hơn là nghiên cứu xã hội về cách ứng xử trong hoạt động khoa học của cộng đồng khoa học gia. Harry Collins (17), nhà xã hội học chuyên về tri thức, kiến thức khoa học, tuy đồng ý với Bricmont rằng các nhà xã hội học, sử học về khoa học nên biết nhiều hơn về khoa học, vẫn nghĩ rằng vấn đề có thể đuợc tiếp cận từ một gốc độ khác. Theo Collins, nếu ta phân biệt chủ nghĩa "tương đối triết học" và "tương đối về phương pháp" như Bricmont đã luận cứ, thì chính sự tương đối của phương pháp mới là có giá trị. Đó mới chính là điểm cơ bản để thảo luận trong ngành xã hội học về tri thức khoa học (sociology of scientific knowledge). Như vậy các nhà xã hội học trước tiên không nên có thành kiến là không biết nhiều đến các khoa học khác. Nghĩa là họ không nên biết nhiều khoa học hơn cả các nhà khoa học để nghiên cứu về các hiện tượng xã hội. Đưa ra các thí dụ trong lãnh vực vật lý như thí nghiệm Michelson-Morley và máy của Dayton Miller nhằm tìm sự hiện hữu và độ dời của "ether" (ether drift) trong thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng. Miller được giải thưởng của Hiệp hội Ủng hộ Sự Tiến bộ của Khoa học Mỹ (American Association for the Advancement of Science), trong khi Michelson-Morley không tìm được độ dời ether. Sau này các nhà vật lý mới phát giác là Miller đã sai. Nếu đòi hỏi các nhà khoa học xã hội nghiên cứu vụ này phải có những kiến thức vật lý mà chính Miller thời đó cũng chưa đạt được thì thật là vô lý.
Collins cũng cho rằng việc các khoa học gia trong các lãnh vực hiện được nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau, có bất đồng trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, là thường tình. Ngay cả khi có thêm nhiều dữ kiện, quan sát, tri thức hay lý thuyết hiện đại hơn, sự bất đồng vẫn còn chưa được giải quyết, ít nhất là thoả đáng giữa các bên đối nghịch nhau. Điều này có nghĩa là tất cả các tuyên bố gọi là khoa học đều cần được diễn giải theo ý của cộng đồng khoa học. Trong khoảng thời gian "ngắn hạn", quan điểm cho rằng cần có sự đồng thuận, ngay trong ngành "cứng" nhất của khoa học, là một quan điểm không thực tế. Thực tế cho thấy có nhiều góc cạnh, phương pháp, lý thuyết khác nhau trong khoa học mà ta chưa thẩm định hết giá trị. Không có phương pháp nào là tuyệt đối. Đây chính là quan điểm của cái gọi là chủ nghĩa tương đối phương pháp (methodological relativism).
Tham khảo
(1) Weinberg, S., "Facing up: Science and its cultural adversaries", Harvard University Press, 1999.
(2) Sokal, A., "A physicist experiments with cultural studies", Lingua Franca, May/June 1996, pp. 62-64.
(3) Verran, H., "Science and an African logic", University of Chicago Press, 2001.
(4) Weinberg, S., "Dreams of a final theory", Patheon books, New York, 1992.
(5) Popper, K., "Unended quest: an intellectual autobiography", Routledge, Edition 5, 2002.
(6) Popper, K., "Objective knowledge, an evolutionary approach", Clarendon Press, Oxford, 1989
(7) Popper, K., "The Open Society and its enemies", Routledge & Kegan Paul, London 1966.
(8) Kuhn, T., "The structure of scientific revolutions", University of Chicago Press, 1966.
(9) Sterelny, K., "Dawkins vs Gould: Survival of the fittest", Totem Books, 2001.
(10) Feyarabend, P., "Against method", Verso Books, Edition 3, Sep. 1993.
(11) Feyarabend, P.,"Explanation, reduction and empiricism", In Feigl/Maxwell, Scientific Explanation: Space and Time, University of Minnesota Press, 1962.
(12) Wilson, E., "Consilience, the Unity of knowledge", Knopf, 1998.
(13) Pickering, A., "Constructing Quarks: A sociological history of particle physics", Chicago, Chicago University Press, 1984
(14) Sokal, A., "Transgressing the boundaries - Toward a transformative hermeneutics of Quantum gravity", Social Text, 46/47, 1996, pp. 217-252.
(15) Weinberg, S., "Sokal 's hoax", The New York Review of Books, Vol XLIII, nọ 13, pp. 11-15, Aug. 8, 1996.
(16) Sokal, A., Bricmont, J., "Fashionable nonsense: postmodern intellectuals's abuse of science", Picador USA, Oct 1999.
(17) Collins, H., "What's wrong with relativism", Physics World, Apr 1998.
(18) Keenan, C., "In the right corner..", Sydney Morning Herald, Aug 17 - 18, 2002.
(19) Windshuttle, K., "The killing of history: How literary critics & social theorists are murdering our Past", Encounter Books, 2000.
(20) Eldredge, N., Gould, S., "Biology rules", Civilization 5 (Oct/Nov): 86 - 88.
(21) Luo W., Hartmann, J.F, Li, J. and Sysamouth V., "GIS Mapping and analysis of Tai linguistic and settlement pattern of Southern China", Geographic Information Sciences, 2000, 6(2):129 - 136. (xem thêm ở NASA web http://earthobservatorỵnasạgov/Study/TaiLanguage)
(22) Smith, B., "Documenting plant domestication: The consilience of biological and archaelogical approaches", Proceedings of National Academy of Sciences (PNAS, Feb. 13 2001, Vol. 98, no 4, pp. 1324-1326.
(23) Baker, V., "The study of superfloods", Science, 295, 2379 - 2380 (March 29 2002)
(24) Oppenheimer, S., Eden in the East, the drowned continent of Southeast Asia, Phoenix, 1998.
(25) Nguyễn Đức Hiệp, Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con người ở Đông Á, Ts Tư Tưởng, Số 7, trang 9 - 13, 4/2000.
(26) International Council for Science, ICSU, "Science and traditional knowledge", Report from the ICSU Study Group on Science and Traditional Knowledge, March 2002.
(27) Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản, Tạp chí Việt, Số 7, 2001.
(28) Ayer, A.J., “Language, Truth and Logic”, New York: Dover Publications, 1952.
------------------------------
[i] Chuyên viên khoa học khí quyển và môi trường, Cơ quan bảo vệ môi trường ở New South Wales,Australia
[ii] Từ "science" đã có từ thế kỷ 13, được các nhà lý luận Pháp dùng rất rộng rãi trong thế kỷ ánh sáng, cũng như chữ "scientifique" dùng như tính từ. (cf. các trích dẫn trong Littré) Còn "L'Encyclopédie" của nhóm Diderot, mà quyển đầu ra năm 1751, có tên dài hơn là " Dictionnaire raisonné des sciences, des arts et des métiers". W. Whewell đặt ra từ scientist - tiếng Pháp là scientifique (danh từ).
© Thời Đại Mới